Thứ Tư, 24 tháng 9, 2014

Giao thẩm quyền công bố dịch cho Chủ tịch UBND tỉnh, thuốc bảo vệ thực vật thành phố.

HỢP QUY NGUYÊN LIỆU THỨC ĂN CHĂN NUÔI  Sự sụt giảm nguồn cung thuốc bảo vệ thực vật từ Trung Quốc


I. ,Kiểm tra thức ăn chăn nuôi nhập khẩu  Đối với người sử dụng thuốc trong Danh mục thuốc bảo vệ thực vật hạn chế sử dụng phải được cấp giấy chứng nhận hoặc thẻ theo quy định”


Với trên 5 ngàn loại thuốc BVTV đang lưu hành trên thị trường, ngay các chủ đại lý có thâm niên hơn chục năm trong nghề cũng không nhớ hết tên, công dụng loại thuốc mình đang bán. Giám đốc Công ty phát triển công nghệ sinh học Nguyễn Phú Cường TX. Long Khánh nhận xét: Các nước có nền nông nghiệp phát triển, quản lý rất chặt thuốc BVTV. Mỗi loại bệnh chỉ có vài loại thuốc đặc dụng và có một cơ quan chính thống cung cấp thông tin cho nông dân. Ở Việt Nam, thuốc BVTV tràn lan”. Chỉ cho thành lập mới văn phòng công chứng ở những nơi chưa có Sáng 29.10, QH đã nghe Bộ trưởng Bộ Tư pháp trình bày dự luật công chứng, nghe Chủ nhiệm UBPL của QH báo cáo thẩm tra về dự luật này. Theo đó dự luật quy định theo hướng khuyến khích việc xã hội hóa hoạt động công chứng. Việc thành lập tổ chức hành nghề công chứng phải tuân theo quy định của luật này và phù hợp với quy hoạch tổng thể phát triển tổ chức hành nghề công chứng đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Tuy nhiên, khác với luật hiện hành cho phép phòng công chứng được thành lập ở bất cứ đâu, dự luật quy định phòng công chứng chỉ được thành lập tại những địa bàn chưa thuoc bao ve thuc vat có điều kiện phát triển văn phòng công chứng; văn phòng công chứng thành lập ở những địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn được hưởng chính sách ưu đãi. S.ĐÀ ..


Ảnh minh họa. Nguồn: Internet Thông tư hướng dẫn cụ thể về mức thu và tổ chức thu, nộp và quản lý sử dụng. Theo đó, mức thu phí, lệ phí trong lĩnh vực bảo vệ thực vật được quy định cụ thể tại Biểu mức thu ban hành kèm theo Thông tư này. Phí, lệ phí trong lĩnh vực bảo vệ thực vật là khoản thu thuộc ngân sách nhà nước. Cơ quan thu phí, lệ phí trong lĩnh vực bảo vệ thực vật có trách nhiệm đăng ký, kê khai nộp phí, lệ phí vào ngân sách nhà nước theo quy định tại Thông tư số 63/2002/TT-BTC ngày 24/7/2002 và Thông tư số 45/2006/TT-BTC ngày 25/5/2006 sửa đổi, bổ sung Thông tư số 63/2002/TT-BTC ngày 24/7/2002 của Bộ Tài chính hướng dẫn thực hiện các quy định pháp luật về phí và lệ phí. Cơ quan thu phí, lệ phí trong lĩnh vực bảo vệ thực vật được quản lý sử dụng như sau: Đối với cơ quan thu phí, lệ phí trong lĩnh vực bảo vệ thực vật được trích để lại tiền thu phí, lệ phí trước khi nộp vào ngân sách nhà nước theo tỷ lệ % trên tổng số tiền phí, lệ phí thực thu để lại: 20% lệ phí trong lĩnh vực bảo vệ thực vật; được để lại: 80% phí trong lĩnh vực bảo vệ thực vật. Đối với nộp ngân sách nhà nước phần tiền phí, lệ phí còn lại tổng số tiền phí, lệ phí thực thu được, trừ số đã để lại theo tỷ lệ quy định tại điểm a khoản này gồm: Lệ phí trong lĩnh vực bảo vệ thực vật phải nộp vào ngân sách nhà nước: 80%; Phí trong lĩnh vực bảo vệ thực vật phải nộp vào ngân sách nhà nước: 20%. Cơ quan thu phí, lệ phí trong lĩnh vực bảo vệ thực vật được sử dụng số tiền để lại theo tỷ lệ % quy định tại điểm a khoản 3 Điều này để chi phí cho việc thu phí, lệ phí trong lĩnh vực bảo vệ thực vật với nội dung chi cụ thể như: Chi trả các khoản tiền lương hoặc tiền công, các khoản phụ cấp, các khoản chi bồi dưỡng độc hại, làm việc thêm giờ, ngoài giờ, các khoản đóng góp theo tiền lương, tiền công cho lao động kể cả lao động thuê ngoài phục vụ việc thu phí, lệ phí theo chế độ hiện hành; Chi trang bị đồng phục hoặc bảo hộ lao động cho lao động thực hiện việc thu phí, lệ phí theo chế độ quy định nếu có; Chi phí phục vụ cho việc thu phí, lệ phí như: vật tư văn phòng, điện thoại, điện, nước, công tác phí, công vụ phí; In mua tờ khai, giấy phép, các loại ấn chỉ khác theo tiêu chuẩn, định mức hiện hành; Chi sửa chữa thường xuyên, sửa chữa lớn tài sản, máy móc, thiết bị phục vụ cho việc thu phí, lệ phí; Chi hội nghị, hội thảo, tập huấn nghiệp vụ, tuyên truyền quảng cáo phục vụ việc thu phí, lệ phí; Chi mua sắm vật tư, nguyên liệu, thiết bị, công cụ làm việc và các khoản chi khác theo dự toán được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt; Chi khen thưởng, phúc lợi cho cán bộ, nhân viên trực tiếp thực hiện công việc, dịch vụ và thu phí, lệ phí trong đơn vị theo nguyên tắc bình quân một năm, một người tối đa không quá 3 tháng lương thực hiện nếu số thu năm nay cao hơn năm trước và tối đa bằng 2 tháng lương thực hiện nếu số thu năm nay thấp hơn hoặc bằng năm trước. Cơ quan thu phí, lệ phí trong lĩnh vực bảo vệ thực vật phải quản lý, sử dụng số tiền phí, lệ phí được để lại nêu trên đúng mục đích, có chứng từ hợp pháp theo quy định. Định kỳ theo quy định của Cục Bảo vệ thực vật, các cơ quan thu phí, lệ phí trong lĩnh vực bảo vệ thực vật trực thuộc căn cứ vào dự toán được cấp có thẩm quyền phê duyệt hàng năm chia theo từng tháng, quý, nếu số tiền được trích để lại theo tỷ lệ quy định trên đây lớn hơn số được chi theo dự toán được duyệt thì phải nộp số chênh lệch vào tài khoản của Cục Bảo vệ thực vật để Cục thực hiện điều hòa cho các đơn vị trực thuộc không đủ nguồn chi bảo đảm hoạt động.Cục Bảo vệ thực vật được mở thêm tài khoản tiền gửi tại Kho bạc Nhà nước nơi đóng trụ sở để điều hòa tiền phí, lệ phí giữa các đơn vị trong nội bộ. Số dư tài khoản cuối năm được chuyển sang năm sau. Tổng số tiền phí, lệ phí thực thu được, sau khi trừ số được trích để lại trang trải cho việc thu phí, lệ phí theo tỷ lệ % quy định, số tiền còn lại cơ quan thu phí, lệ phí phải nộp vào ngân sách nhà nước theo Mục lục Ngân sách nhà nước hiện hành. Thông tư này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 07/02/2013, đồng thời thay thế Thông tư số 110/2003/TT-BTC ngày 17/11/2003 của Bộ Tài chính. Biểu mức thu ban hành kèm theo Thông tư này: Bieu thuốc bảo vệ thực vật muc thu phi kem theo.DOC. Đại biểu Nguyễn Thùy Trang TP Hồ Chí Minh phát biểu tại Hội trường. Đây là lần thứ hai CropLife tổ chức sự kiện này với mục tiêu nâng cao nhận thức cho bà con nông dân về sử dụng đúng và hiệu quả các chất bảo vệ thực vật, đảm bảo an toàn cho người sử dụng, nông sản và môi trường. TRẦN MẠNH. Bánh Trung thu cổ truyền lên ngôi” 9:15, 04/09/2014 Dịp Tết Trung thu năm nay một số cửa hàng bánh cổ truyền tại Hà Nội đã chào hàng với rất nhiều mẫu mã, hương vị, kiểu dáng phong phú. Nhiều nơi đua nhau quảng cáo nhằm thu hút người mua. Tại một số cửa hàng bánh Trung thu cổ truyền, dù mẫu mã không thật sự bắt mắt, song những cửa hàng này luôn đông lượng khách ra vào, thậm chí có những nơi còn chen lấn, xếp thành hàng dài.. ,Hợp chuẩn thức ăn bổ sung 0903587699
 Chi phí sản xuất của nông dân bị tăng thêm do sử dụng phần lớn thuốc BVTV nhập khẩu. Chi phí tăng vì nguyên liệu nhập Qua tìm hiểu của phóng viên trên thị trường, thuốc BVTV có nguồn gốc từ nhập ngoại gồm cả nhập khẩu hoạt chất, nguyên liệu và thuốc thành phẩm thường có giá cao hơn hẳn thuốc gắn mác” nội địa. Ví dụ thuốc trừ sâu Regent 800WG của Công ty Bayer Việt Nam có giá 5.500 - 6.000 đồng/gói, trong khi sản phẩm cùng loại của Công ty CP quốc tế Hòa Bình bán giá 4.000 đồng/gói. Đang phun thuốc trừ sâu bệnh cho mấy luống rau cải xanh và cải bắp, chị Trần Thị Tâm ở phường Ngọc Thụy Long Biên, Hà Nội than thở: Lứa rau nào gia đình tôi cũng phải phun thuốc trừ sâu, mà càng ngày càng phải phun nhiều sâu mới chết. Ví dụ như thuốc trừ sâu ăn lá Regent 800WG, tôi phải mua của đại lý với giá 10.000 đồng/gói, phun được 1 sào. Hay thuốc Starner 20WP gói 10gam đặc trị bệnh bạc lá lúa, thối nhũn bắp cải của Công ty Sumitomo Chemical Việt Nam, nhập từ Nhật Bản – PV, có giá 14.000 đồng/gói, phải phun 2 gói mới đủ 1 sào rau. Thuốc nhập khẩu bao giờ giá cũng đắt hơn. Cũng là dòng trị nấm trên rau và bạc lá lúa, nhưng thuốc Sat 4SL do Cô ng ty TNHH Nam Bắc TP.HCM phân phối lại chỉ bán với giá 9.000 đồng/gói 10ml. Tuy nhiên, nhiều nông dân vẫn cắn răng mua thuốc ngoại vì chủng loại rất đa dạng và hiệu quả hơn so với thuốc nội” – chị Tâm nói. Chị Hoàng Thị Hiền - nông dân xã Ân Hòa Kim Sơn, Ninh Bình cho biết: Mỗi vụ gia đình tôi cấy hơn 2 mẫu lúa. Cách đây khoảng 3-4 năm, chi phí cho thuốc trừ sâu bệnh, thuốc trừ cỏ chỉ hết khoảng 60.000 – 70.000 đồng/sào/vụ, nhưng hiện nay, giá thuốc trừ sâu bệnh các loại đều tăng nên chi phí đã tăng lên khoảng 100.000 - 120.000 đồng/sào/vụ. Đầu tư nhiều mà giá lúa tăng giảm thất thường nên chúng tôi làm gần như không có lãi”. Chị Hiền cũng cho hay, nếu chỉ dùng thuốc BVTV ngoại, chi phí còn cao hơn nữa, nhưng hầu như ai cũng thích dùng thuốc ngoại vì hiệu quả nhanh. Ví dụ như thuốc trừ nấm bệnh Anvil 5SC dung tích 1 lít/chai của Syngenta có giá gần 200.000 đồng, nhưng thuốc có cùng hoạt chất và dung tích do các công ty trong nước sản xuất, đóng gói như An Nông, Ngọc Tùng, Hòa Bình... Thì giá chỉ 90.000 đồng/chai. Tương tự, trong lĩnh vực máy nông nghiệp, ông Nguyễn Mạnh Thắng – Giám đốc Công ty TNHH Phát triển đầu tư Việt Phú Hà Nội cho biết: Máy trong nước sản xuất tuy sẵn thật đấy, nhưng giá cả không chênh lệch nhiều so với máy nhập ngoại, trong khi lại nhanh hỏng, công năng sử dụng thấp, ít chủng loại nên chả tội gì mà nông dân phải mua máy nội. Ví dụ, máy gặt đập liên hợp nhập từ Trung Quốc có giá gốc là 5.800 USD/chiếc, khi về Việt Nam khoảng 7.500 USD/chiếc khoảng 160 – 170 triệu đồng, tới tay nông dân là 175 triệu đồng, tương đương máy sản xuất trong nước. Bởi trên thực tế, máy gặt đập liên hợp gắn mác nội song vẫn phải nhập khẩu động cơ từ nước ngoài, hoặc sử dụng động cơ cũ, lạc hậu và nhanh hỏng”. Phụ thuộc thành... Quen? Lý giải về việc vì sao máy nông nghiệp Trung Quốc, Nhật Bản đang thống trị” thị trường máy nông nghiệp nước ta, đại diện Viện Nghiên cứu nông nghiệp Bộ NNPTNT cho biết, ở thị trường nội địa, doanh nghiệp có thịphần lớn nhất là Tổng Công ty Máy động lực và máy nông nghiệp Việt Nam VEAM chiếm khoảng 40% thị phần của các nhà sản xuất máy nông nghiệp trong nước. Còn lại đa số cơ sở chế tạo máy nông nghiệp của Việt Nam là xưởng cơ khí địa phương, nhỏ lẻ, vì vậy kỹ thuật thiết kế và công nghệ chế tạo bị hạn chế, các chi tiết máy chất lượng thấp dẫn đến làm tăng chi phí bảo trì, sửa chữa, từ đó nông dân không ưa chuộng. Chính vì không bán được hàng nên các cơ sở, doanh nghiệp trong nước càng ngại đầu tư cho khâu nghiên cứu, chế tạo và lâu dần trở thành bị phụ thuộc vào nguồn hàng nhập khẩu” – ông Phạm Tuấn Anh – Phó Giám đốc Công ty TNHH Máy nông nghiệp Việt Trung Hải Dương nói. Ông Đoàn Xuân Hòa - Phó Cục trưởng Cục Chế biến thương mại nông lâm thủy sản và nghề muối Bộ NNPTNT cho rằng, việc nhập khẩu đến 60% máy móc thiết bị để giúp cơ giới hóa nông nghiệp là điều bắt buộc hiện nay. Để chế tạo được các loại máy móc nông nghiệp phải có nhiều sản phẩm phụ trợ, trong khi ngành công nghiệp phụ trợ của ta chưa đáp ứng được nên phải lệ thuộc vào nhập khẩu. Trên thực tế, chúng ta cũng đã bắt đầu xuất khẩu một số loại máy tách, cắt vỏ hạt điều sang châu Phi. Tuy nhiên, để làm chủ công nghệ này, ban đầu Việt Nam cũng phải nhập máy móc từ các nước, trên cơ sở đó thuốc bảo vệ thực vật các doanh nghiệp, cơ sở chế tạo mới sáng tạo ra máy cắt, tách vỏ hạt điều gắn mác made in Vietnam” để xuất khẩu”. Về việc những năm gần đây nước ta nhập khẩu ngày càng nhiều vật tư nông nghiệp, PGS - TS Nguyễn Văn Bộ - nguyên Giám đốc Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam cho biết, trên thế giới rất khó tìm được quốc gia nào có thể chủ động được mọi công đoạn sản xuất các sản phẩm hoàn chỉnh, nhưng cũng chưa thấy quốc gia nào đứng trong tốp đầu về xuất khẩu nông sản mà lại phải đi mua vật tư nông nghiệp nhiều như Việt Nam. Khi nhập về, các loại vật tư phải chịu nhiều loại thuế, rồi qua nhiều khâu trung gian rồi mới đến tay nông dân, vì vậy giá cả đã bị đội lên rất cao so với giá gốc. Người nông dân dành dụm được đồng nào lại đi mua vật tư nông nghiệp của nước ngoài để phục vụ sản xuất, dẫn đến giá thành sản phẩm làm ra luôn cao. Tuy xuất khẩu số lượng nhiều, song lợi nhuận bà con thu được rất thấp, chẳng khác nào bán mồ hôi với giá rẻ” – ông Bộ nói. PGS -TS Nguyễn Văn Bộ cho rằng: Tỷ trọng nguyên vật liệu phục vụ cho việc chế tạo máy hiện nay đa phần là nhập khẩu, trong nước chỉ sản xuất được khoảng 10-12%... Do tự sản xuất không hiệu quả nên nhiều doanh nghiệp cơ khí đã chuyển sang lắp ráp hàng của Trung Quốc”. Tạm giữ 3 xe khách giường nằm Thành Bưởi. Theo Chi cục BVTV Hà Nội, hiện nay trên địa bàn Hà Nội vẫn tồn tại một số cửa hàng buôn bán thuốc BVTV nhỏ lẻ, hoạt động theo mùa vụ ở các thôn xóm, gây khó khăn cho việc quản lý kinh doanh và sử dụng thuốc BVTV; tình trạng thuốc BVTV ngoài danh mục cho phép, vẫn nhập lậu, gây ảnh hưởng không tốt đến thị trường thuốc BVTV cũng như công tác quản lý ở nhiều nơi. Để khắc phục tình trạng này, Chi cục BVTV Hà Nội tăng cường công tác tuyên truyền, hướng dẫn nông dân cũng như người buôn bán thuốc BVTV về cách sử dụng thuốc BVTV đúng kỹ thuật, thời gian. Chi cục cũng tham mưu với Sở NN&PTNT Hà Nội, UBND thành phố từng bước nâng cao trách nhiệm của chính quyền địa phương trong quản lý thuốc BVTV trên địa bàn với các giải pháp như: Đề nghị Chủ tịch UBND các xã ký cam kết với UBND huyện, Chi cục BVTV để thực hiện quản lý thuốc BVTV trên địa bàn theo đúng quy định; Xây dựng và hình thành các quy định của địa phương về quản lý và sử dụng thuốc BVTV trên địa bàn. Đại biểu Nguyễn Thùy Trang TP Hồ Chí Minh phát biểu tại Hội trường.


II. Nguyên nhân chủ yếu gây ra nhiễm độc thuốc bảo vệ thực vật thường do người lao động tiếp xúc quá lâu và liên tục với môi trường độc hại


.Thứ Tư,  24/9/2014, 23:00 GMT+7 Đăng ký |  Đăng nhập Đặt báo in. Mỏ Cromit độc nhất Việt Nam, lớn nhất khu vực Đông Nam Á 10:11, 15/07/2014 Công ty cổ phần Cromit Cổ Định Thanh Hoá, tiền thân là Xí nghiệp Cromit Cổ Định được thành lập từ ngày 28/2/1956. Trải qua nhiều thăng trầm, năm 2006, Công ty Cromit Cổ Định chính thức là thành viên Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam, chiếm 90% vốn điều lệ vốn điều lệ 800 tỷ đồng. Sống trong sợ hãi Mới đây, gia đình chị Hà Thị Hồng trú xóm 4, xã Hưng Khánh, H. Hưng Nguyên, Nghệ An đào móng làm công trình phụ thì phát hiện một lượng lớn tồn dư thuốc BVTV được chôn dưới đất. Sau khi bất đắc dĩ khai quật” được kho thuốc” thì không chỉ gia đình chị Hồng mà nhiều gia đình ở xóm 4 luôn sống trong cảnh bất an nên phải sơ tán” con nhỏ đi nơi khác để tránh hít phải mùi thuốc hôi nồng. Ông Hoàng Đức Thông, Chủ tịch UBND xã Hưng Khánh cho biết: Ngoài điểm mới phát hiện tại xóm 4, trên địa bàn xã còn có một số điểm bị ô nhiễm rất nghiêm trọng và ngày càng lan rộng nên người dân địa phương rất hoang mang lo lắng. Vừa qua cũng đã có đơn vị chức năng về kiểm tra để xử lý nhưng chưa thấy triển khai xử lý. Kho thuốc BVTV trong vườn nhà chị Hồng xóm 4, xã Hưng Khánh, H. Hưng Nguyên. Thời gian qua, trên địa bàn Nghệ An đã phát hiện rất nhiều điểm tồn dư thuốc BVTV nằm trong khu dân cư, thậm chí có hộ sống trên nền kho thuốc BVTV cũ, hoặc có gia đình đào giếng cạnh với điểm kho thuốc BVTV. Nhiều điểm tồn dư đã bị biến dạng do người dân cải tạo đất hoặc làm nhà chồng lên bên trên mà không hề hay biết. Có thể kể đến các huyện có nhiều điểm tồn dư thuốc BVTV như: Nam Đàn, Nghĩa Đàn, Tân Kỳ, Thanh Chương, Quỳnh Lưu, Diễn Châu... Hoặc như tại xóm Mậu 2, xã Kim Liên H. Nam Đàn trước đây là trung tâm pha chế và phân phối thuốc trừ sâu trong những năm 1964- 1968 cho cả tỉnh. Đã nhiều năm qua, mức độ ô nhiễm không giảm đi mà có phần phát tán rộng hơn. Trước thực trạng này, Sở TN&MT Nghệ An đã thực hiện Đề án Công trình xử lý mức độ ô nhiễm thuốc BVTV tại xóm Mậu 2” do Trung tâm Ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ tiến hành thi công xử lý điểm ô nhiễm này. Tuy vậy, sau một thời gian, một số hạng mục công trình đã bị hư hỏng, trong đó hệ thống bể lọc bị vỡ nên thường xuyên bị ngấm nước. Do không thành công trong lần đầu tiên tiến hành xử lý nên ngay khi dự án tiếp tục triển khai giai đoạn 2 người dân quanh vùng rất quan tâm. Bà Nguyễn Thị Phương, một hộ dân bị ảnh hưởng ô nhiễm từ kho thuốc BVTV này cho rằng: Do khu vực ảnh hưởng sát khu dân cư, việc di dời dân đi nơi khác là không thể, vậy nên giai đoạn 2 này người dân rất mong muốn các cơ quan chức năng tiến hành xử lý thật triệt để, không thể để ảnh hưởng đến sinh hoạt và sức khỏe của người dân. 3 năm xử lý được 10 điểm Trao đổi về vấn đề tồn dư thuốc BVTV, ông Hồ Sỹ Dũng, Chi cục trưởng Chi cục Bảo vệ Môi trường tỉnh Nghệ An thẳng thắn: Rất khó xử lý triệt để các điểm tồn dư thuốc BVTV mà nguyên nhân chủ yếu là do thiếu kinh phí. Bởi theo chủ trương chung của Chính phủ, mỗi điểm xử lý tồn dư thuốc BVTV, Nhà nước chỉ hỗ trợ 50%, còn lại là ngân sách của tỉnh tự bỏ ra. Tuy nhiên, do nguồn kinh phí của tỉnh thuoc bao ve thuc vat còn hạn hẹp nên việc xử lý gặp nhiều khó khăn. Bên cạnh đó, công nghệ xử lý thuốc BVTV chưa đảm bảo, mỗi một điểm tồn dư có một loại hóa chất khác nhau, mỗi vùng lại có điều kiện thổ nhưỡng khác biệt nên không thể áp dụng phương pháp xử lý chung được. Việc xử lý những điểm tồn dư thuốc BVTV như ở xã Hưng Khánh H. Hưng Nguyên chắc chắn không thể triển khai trong ngày một ngày hai được, vì còn liên quan đến nhiều vấn đề như: phải trình qua nhiều cấp ngành mà đặc biệt là nguồn kinh phí để xử lý quá lớn, yêu cầu kỹ thuật cao. Cũng theo ông Dũng, Nghệ An là địa phương phát hiện ra nhiều điểm tồn dư thuốc BVTV nhất cả nước, những điểm phát hiện ra điểm tồn dư thuốc BVTV là những điểm trước đây có nông trường, lâm trường, HTX, bệnh viện... Đóng tại đó. Theo thống kê của ngành chức năng, trong 3 năm qua Nghệ An xử lý được 10 điểm tồn dư thuốc BVTV. Theo lộ trình, từ nay cho đến năm 2020 tỉnh Nghệ An phải xử lý dứt điểm 189/913 điểm tồn dư thuốc BVTV. Trước thực trạng trên, cuối năm 2013, UBND tỉnh đã có công văn gửi Bộ TN&MT về việc đề nghị tăng thêm kinh phí hỗ trợ, với mức trung bình 80%. Ưu tiên xử lý những điểm bị ô nhiễm nặng, điểm lộ thiên, riêng những điểm gần khu dân cư cần có giải pháp sớm, nhằm đảm bảo sức khỏe, tính mạng cho người dân. Hiện nay, người dân Nghệ An đang rất lo lắng khi sống chung với những điểm ô nhiễm từ thuốc BVTV. Dù biết rằng đây là một bài toán khó, nhưng các cơ quan có thẩm quyền nên sớm đưa ra lời giải hoặc phương án để khắc phục, xử lý được những khó khăn trên. Đặc biệt là những điểm nằm sát nhà dân và khu dân cư. Bài, ảnh: X.S. Đây là ba hoạt chất đăng ký thuốc trừ rầy, bệnh cháy bìa lá lúa. Trong đó, ngoại trừ Acetamiprid vượt mức quy định của Nhật 0,01 ppm, hai hoạt chất còn lại chưa vượt ngưỡng quy định của Nhật. Để hạn chế tình trạng này, trước mắt An Giang đã khuyến cáo nông dân sử dụng thay thế các loại thuốc này, đồng thời tiến hành kiểm soát chặt nội dung quảng cáo, tiếp thị, sử dụng các loại thuốc này trên các phương tiện truyền thông của tỉnh. TÙNG HƯƠNG .


Theo kết luận điều tra, giữa năm 2010, Công an TP Cần Thơ phát hiện Tín mua bán thuốc BVTV giả. Ngày 14-8-2010, công an kiểm tra phòng trọ nơi Tín thuê ở phường An Hòa, quận Ninh Kiều TP Cần Thơ và phát hiện lượng lớn thuốc BVTV giả. Công an đã niêm phong hơn 25.000 gói Nativo, 1.600 gói Beam, gần 100 chai Tilt Super và tem, nhãn, giấy tờ Tilt Super. Tổng số thuốc BVTV giả mà Tín đã mua để bán lại có giá trị hơn 883 triệu đồng. GIA TUỆ. Bể được làm từ vật liệu composite, có hai ngăn và nắp đậy nên dễ sửa chữa và di chuyển. Ngoài ra, bể cũng có các bộ phận phụ trợ như cửa thu rác, phên thuoc bao ve thuc vat nén để dìm bao bì trong dung môi xử lý hóa chất, van xả nước, các móc treo... Bể có kích thước 0,5m3/ngăn nhưng có thể thay đổi tùy thuộc vào quy mô và hình thức quản lý thu gom. Khi xử lý bao bì thuốc BVTV, có thể dùng hỗn hợp n-hecxan ở lượng 1,5-2 lít/1.000kg bao bì làm cho 99% dư lượng thuốc còn sót lại bị tiêu hủy. TIN TỨC THỊ TRƯỜNG. Bà Trần Thị Quốc Khánh - Ủy viên Ủy ban Khoa học công nghệ và Môi trường của Quốc hội. Ảnh: T.L .. Chứng nhận chất lượng sản phẩm Mã xác nhận      Vui lòng sử dụng tiếng Việt có dấu. Hàm lượng chất hữu cơ, đạm trong phân bón từ nguyên liệu cây neem đạt các chỉ tiêu định lượng theo quy định của Bộ NN-PTNT. Quy trình sản xuất thuốc BVTV bước đầu đã chuyển giao cho Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển nông dược thuộc Công ty Cổ phần Thuốc sát trùng Việt Nam sản xuất thành phẩm thuốc BVTV ứng dụng thử nghiệm trên cây cải ngọt bệnh tuyến trùng, dưa leo bệnh sâu xanh sọc trắng, sứ kiểng Thái bệnh nhện đỏ cho thấy thuốc có hiệu lực diệt côn trùng khá tốt. Cây neem có xuất xứ từ Ấn Độ; tại Việt Nam, cây neem được trồng nhiều ở khu vực tỉnh Ninh Thuận hơn 2.000 ha, là loại cây phù hợp với những vùng đất có độ khô hạn cao. Sâu chết ngay mới sướng Ông Nguyễn Văn Sơn, Phó Chủ tịch kiêm Tổng thư ký Hội sản xuất và kinh doanh thuốc BVTV Việt Nam VIPA khẳng định, trong khi việc tuyên truyền tới cộng đồng về lợi ích của thuốc BVTV hiện nay chưa thực sự hiệu quả thì những thông tin quá mức về việc sử dụng thuốc BVTV gây ảnh hưởng tới sức khỏe, hủy hoại môi trường lại khiến toàn xã hội lo ngại và tránh xa các sản phẩm nông nghiệp có sử dụng thuốc BVTV. Theo ông Sơn, những ảnh hưởng tiêu cực trong việc sử dụng thuốc BVTV phần lớn xuất phát từ chính người sử dụng thuốc BVTV. Chỉ cần đi thăm đồng là có thể thấy rất rõ việc người dân lạm dụng thuốc, thậm chí là dùng sai, dùng cả thuốc độc, thuốc cấm, thuốc không có trong danh mục thuốc BVTV được phép sử dụng ở Việt Nam. Rồi thì chưa dịch hại cũng phun thuốc, phun xịt với với liều lượng cao thuoc bao ve thuc vat hơn khuyến cáo, phối trộn nhiều loại thuốc với nhau, xử lý thuốc BVTV nhiều lần trong vụ. Thực tế, đối với người dân, tiêu chuẩn chọn thuốc là sâu chết ngay thì mới tin dùng chứ không quan tâm xem thuốc đó phun với liều lượng thế nào, có phải thuốc cấm không... Một nguyên nhân khác còn do một số nhà phân phối thuốc BVTV vì lợi nhuận mà bất chấp tất cả. Họ sẵn sàng bán những loại thuốc mà nông dân ưa chuộng và có lợi nhuận cao, số lượng lớn. Ông Trần Quang Hùng, Chủ tịch của VIPA cho biết thêm, mỗi công ty, mỗi hãng sản xuất thuốc BVTV đều có hệ thống đại lý cấp dưới, hàng chục nghìn đại lý bán lẻ này nếu được tuyên truyền, phổ biến để hiểu rõ tác hại của việc sử dụng thuốc BVTV ngoài danh mục, thực hiện không đúng các quy định về sử dụng thuốc BVTV thì họ sẽ chính là kênh thông tin hữu hiệu đối với người sử dụng. Tuy nhiên, ông Hùng cũng cho rằng, không thể hoàn toàn đặt niềm tin vào ý thức của các đại lý, bởi nếu có lợi họ sẽ bất chấp mà làm. Đặc biệt, trên thị trường thuốc BVTV ở Việt Nam hiện nay có đến 20% thị phần là các doanh nghiệp kinh doanh thuốc BVTV trôi nổi, nhập lậu. Đây chính là trung tâm rắc rối với các loại thuốc kém chất lượng, thuốc giả, thuốc ngoài danh mục... Cần phải có sự kết hợp sử dụng một cách hài hòa giữa thuốc BVTV nguồn gốc sinh học và nguồn gốc hóa học. Loại bỏ tư tưởng làm quá sử dụng thuốc BVTV Ông Nguyễn Văn Sơn cho biết, đã đến lúc cần bỏ ngay tư tưởng làm quá trong việc sử dụng thuốc BVTV. Chúng ta không nên lạm dụng thuốc BVTV nhưng cũng không thể loại bỏ thuốc BVTV khỏi đồng ruộng. Cần phải có sự kết hợp sử dụng một cách hài hòa giữa thuốc BVTV nguồn gốc sinh học và nguồn gốc hóa học. Để đảm bảo an toàn, những loại thuốc được lựa chọn phải có các tiêu chuẩn như phải có trong danh mục được phép sử dụng ở Việt Nam, phải có hiệu lực phòng trừ dịch hại, ít độc với người và động vật có ích, không tồn dư lâu trong nông sản, đất, nước, không hoặc ít gây tính kháng ở dịch hại, giá cả hợp lý, an toàn, dễ sử dụng. Ngoài ra, cần sử dụng luân chuyển các thuốc BVTV có cơ chế tác động khác nhau để hạn chế tính kháng của dịch hại, sử dụng thuốc theo ngưỡng kinh tế. Cần phải nắm vững việc sử dụng thuốc phải tuân thủ theo nguyên tắc 4 đúng: đúng thuốc, đúng thời điểm, đúng cách, đúng liều lượng. Hơn thế cần xây dựng tổ chức các hoạt động huấn luyện đào tạo cho các cán bộ quản lý, sản xuất, cán bộ khuyến nông, nông dân theo hướng nông nghiệp hữu cơ. Ngoài ra, Nhà nước cũng cần đầu tư và có các chương trình nâng cao nhận thức của cộng đồng sử dụng thuốc BVTV; cần có các chính sách hỗ trợ giá cho việc sản xuất nông sản an toàn cũng như sản xuất và sử dụng các thuốc BVTV có nguồn gốc sinh học. Huy Khánh. TIN TỨC THỊ TRƯỜNG .


III. Tác hại của thuốc bảo vệ thực vật đến sức khỏe Thuốc bảo vệ thực vật là các loại hóa chất do con người sản xuất ra để trừ sâu bệnh và cỏ dại có hại cho cây trồng


Những hiểm họa từ hóa chất BVTV vẫn đang rình rập sức khỏe người dân. VIPA cũng sẽ đẩy mạnh việc phản biện, thẩm định xã hội về thuốc BVTV, góp ý kiến vào các văn bản pháp quy, hợp tác chặt với Cục BVTV trong việc quản lý thuốc BVTV; hợp tác quốc tế trong sản xuất kinh doanh. Đ.C.P. Cơ quan chức năng đã tạm giữ 70 chai Bioncin 8000 SC loại 100 ml, 100 chai thuốc trừ sâu Sagomycin 20 FC loại 100 ml, 92 chai Callilex 50SC loại 100 ml, 27 chai rầy Bascgde 50 EC loại 240 ml, 25 chai Hinosan 30EC loại 100 ml, 200 gói thuốc trừ cỏ và Oesta...Toàn bộ số hàng trên đã được tổ công tác niêm phong để làm thủ tục tiêu hủy theo quy định. Thống kê của cơ quan chức năng, hiện Lạng Sơn có khoảng 36 loại thuốc BVTV, Lào Cai có khoảng 18 loại thuốc BVTV cực độc, không được phép sử dụng đã nhập lậu qua biên giới và đang được bày bán công khai. Trong đó, có những loại Việt Nam đã cấm sử dụng từ những năm 1980 như: Thuốc trừ sâu 666, thuốc trừ cỏ 2.4.5 T Brochtox, Decamine, Veon.... Còn theo Tổng cục Hải quan, hiện nay các mặt hàng thuốc BVTV được nhập lậu vào Việt Nam ngày càng tinh vi và rất khó phát hiện, vì phần lớn các đối tượng buôn lậu thuê bà con khu vực biên giới vận chuyển thuốc BVTV số lượng ít, đi đường mòn, đường tắt. Trên 80% Thuoc bao ve thuc vat số thuốc BVTV trôi nổi hiện nay đã nhập lậu theo dạng này. P.N.L .. Ông Nguyễn Văn Truyền xóm Vũ Kỳ, xã Đồng Thành bắt đầu được dùng nước sạch thay thế nước giếng nhiễm thuốc BVTV. Trước đó, đã có thông tin Việt Nam nhập cải thảo có sử dụng formaldehyde để bảo quản. Formaldehyde là loại hóa chất độc hại, có tác dụng tẩy uế và sát trùng, được dùng để bảo quản mẫu vật trong phòng thí nghiệm và ướp xác chết. Cục Bảo vệ thực vật cũng giao trách nhiệm cho các đơn vị kiểm dịch thực vật tại cửa khẩu tăng cường kiểm soát chặt chẽ đối với thực phẩm nông sản có nguồn gốc thực vật nhập khẩu, tăng tần suất lấy mẫu kiểm tra rau quả nhập khẩu. Cần tăng cường tập huấn hướng dẫn nông dân về quy trình kỹ thuật sử dụng thuốc BVTV trên cây chè. Dùng thuốc không đăng ký để sản xuất rau Trên diện tích gần 320.000ha đất canh tác nông nghiệp, mỗi năm nông dân trong tỉnh Lâm Đồng sử dụng khoảng 16.000 tấn thuốc BVTV. Trong gần 320.000ha đất canh tác nông nghiệp của tỉnh, diện tích rau chiếm khoảng 47.000ha và chè gần 24.000ha. Qua kiểm tra 8 cơ sở trên địa bàn các huyện Đơn Dương, Đức Trọng và TP.Đà Lạt, Chi cục BVTV Lâm Đồng báo cáo: Có 3 cơ sở là trang trại Lê Công Thôn Đức Trọng, HTX Kim Bằng Đà Lạt và cơ sở Mai Văn Khẩn Đà Lạt sử dụng loại thuốc BVTV không có đăng ký sử dụng trên rau. Bên cạnh đó, Chi cục BVTV Lâm Đồng còn báo cáo: Đối với nông dân sản xuất rau truyền thống vẫn còn thể hiện nhiều yếu tố bất cập trong sử dụng thuốc BVTV như: 46% số hộ nông dân thường tăng nồng độ sử dụng so với khuyến cáo, 42% số hộ phun thuốc khi sâu bệnh gây hại còn ở mức độ thấp, 39% số hộ phun thuốc định kỳ không theo kết quả điều tra phân tích hệ sinh thái đồng ruộng, 38% số hộ sử dụng thuốc không đăng ký phòng trừ dịch hại trên rau, trong đó có một số loại thuốc thuộc danh mục hạn chế sử dụng. Chi cục BVTV Lâm Đồng còn cho biết cụ thể: Trong năm 2012, nông dân trong tỉnh đã sử dụng 1.800 tấn thuốc BVTV trên cây rau; trong đó, lượng thuốc BVTV trên cây rau họ thập tự là 814 tấn, rau họ cà 697 tấn và các loại rau khác là 262 tấn. Qua kiểm tra và phân tích định tính dư lượng thuốc BVTV trên 4.246 mẫu rau quả cải thảo, parot, hành lá, cà chua, đậu Hà Lan, ớt ngọt, đậu leo, hành tây, khoai tây, dâu tây, dưa leo..., kết quả cho thấy có đến 202 mẫu có dư lượng thuốc BVTV vượt giới hạn an toàn, riêng với 160 mẫu rau Đà Lạt qua phân tích, có đến 26 mẫu rau không an toàn; gồm cải thảo, hành lá, cà chua, ớt ngọt, đậu leo, hành tây và dâu tây. Lạm dụng cả trên cây chè Trong năm 2012, lượng thuốc BVTV được sử dụng trên cây chè của tỉnh Lâm Đồng là 879 tấn. Kết quả điều tra tình hình sử dụng thuốc BVTV tại 720 hộ nông dân trồng chè ở 3 huyện Di Linh, Bảo Lộc và Bảo Lâm của Chi cục BVTV Lâm Đồng cho thấy: Việc lạm dụng thuốc BVTV để phòng trừ dịch hại trên cây chè vẫn thuoc bao ve thuc vat còn phổ biến. Chẳng hạn, 85,8% số hộ dân phun thuốc khi dịch hại ở mức độ thấp, 42,8% số hộ dân phun thuốc tăng liều lượng so với khuyến cáo, 83% số hộ dân còn phối trộn từ 2 - 3 loại thuốc trừ sâu hoặc trừ bệnh để phun trong một lần, số lần phun trong năm còn cao 38,4% số hộ dân phun 5 - 7 lần/năm, 25,9% số hộ dân còn phun trên 7 lần/năm...”. Đặc biệt, nhiều người dân vẫn còn sử dụng các hoạt chất chỉ khuyến cáo sử dụng trên cây càphê, caosu để phòng trừ dịch hại trên cây chè, gây nên hiện tượng sâu kháng thuốc, làm bùng phát dịch hại và là nguyên nhân chính để lại dư lượng thuốc BVTV vượt mức cho phép trên sản phẩm chè. Thêm vào đó, qua kiểm tra 4 cơ sở sản xuất trà an toàn, Chi cục BVTV Lâm Đồng còn phát hiện 2 đơn vị là Cty trà Vinasuzuki và Cty trà Kinh Lộ còn sử dụng một số thuốc BVTV không đăng ký sử dụng trên cây chè như Virofos 20EC, Visher 25EC... Để hạn chế thấp nhất di hại của thuốc BVTV, Chi cục BVTV Lâm Đồng đề nghị Xây dựng các chương trình giám sát dư lượng thuốc BVTV tại các chợ đầu mối, vựa cung cấp rau, các cơ sở sản xuất rau an toàn để cảnh báo cho người sản xuất trong việc đảm bảo quy trình sản xuất, người tiêu dùng trong việc lựa chọn sản phẩm an toàn”. Tuy vậy, chế tài xử lý hiện tượng sử dụng tràn lan hóa chất BVTV trong nông dân vẫn còn khá tù mù và ít mang lại hiệu quả. Đó là các kho thuốc tại HTX nông nghiệp Hòa Kiến 3 TP.Tuy Hòa với một nhà kho xuống cấp, nhiều can thuốc, phuy thuốc lâu ngày bị ôxy hóa làm vỡ ngấm xuống đất; kho thuốc của Cty VTTH Phú Yên với 433kg Falizan và 430kg thuốc khai hoang tồn đọng tại thôn Phong Niên, xã Hòa Thắng huyện Phú Hòa; kho thuốc tại Nông trường Sơn Thành cũ thuộc huyện Tây Hòa, với khối lượng 78,8kg Falizan chôn trực tiếp xuống đất. Vào mùa nắng, kho thuốc tại HTX Hòa Kiến 3 bốc hơi nồng nặc, lan tỏa cả một vùng, trong khi trường tiểu học, trường mẫu giáo và nhà dân thôn Ngọc Phong chỉ cách kho thuốc này khoảng 10 - 15m. Từ năm 2008, Chi cục BVTV đã báo cáo UBND tỉnh và đề nghị các ngành chức năng tiêu hủy các kho thuốc trên, nhưng không hiểu sao đến nay vẫn chưa được xử lý! Lưu Phong .


VEC: Cao tốc Nội Bài - Lào Cai nứt do ... LĐ - Trong tất cả 24 mẫu rau xanh lấy tại các cơ sở sản xuất rau Hà Nội, kết quả cho thấy phát hiện mẫu rau cải xanh của HTX sản xuất, tiêu thụ chế biến sản phẩm nông sản an toàn xã Vân Nội - huyện Đông Anh có dư lượng hoạt chất thuốc BVTV Fipronil là 0,25mg/kg - vượt 12,5 lần mức dư lượng tối đa cho phép là 0,02mg/kg. Cục BVTV ngày 2.2 đã gửi toàn bộ hồ sơ và đề nghị thanh tra chuyên ngành Chi cục BVTV Hà Nội xử lý hành vi vi phạm cơ sở sản xuất theo đúng quy định pháp luật. Dương Hà. Mê hồn trận thuốc trừ sâu đang được lưu thông trên thị trường Cơ quan quản lý bó tay Thống kê sơ bộ của Cục BVTV cho thấy, hiện có hơn 1.100 loại thuốc trừ sâu với đủ loại giá cả, tên thương mại. Đó còn chưa kể, ở nhiều nơi trên phạm vi cả nước tình trạng thuốc BVTV ngoài danh mục cho phép, nhập lậu tràn lan, khó kiểm soát. Riêng khu vực đồng bằng sông Hồng có khoảng 1.000 đại lý thuốc BVTV đăng ký và các đại lý trôi nổi. Cùng một hoạt chất nhưng có nhiều tên thương mại khác nhau khiến nông dân như lạc vào mê hồn trận. Ghi nhận thực tế tình trạng buôn bán thuốc BVTV trên địa bàn Hà Nội tại các huyện ngoại thành cho thấy, việc kinh doanh còn dễ dãi, hàng trăm loại thuốc với những tên gọi khác nhau, nông dân không biết đâu mà lần. Tại cửa hàng kinh doanh thuốc BVTV Dũng Hà ở thị trấn Quảng Oai, Tây Đằng, Ba Vì, hàng trăm loại thuốc được bày la liệt từ ngoài vỉa hè vào sân trong cửa hàng. Qua kiểm tra, thanh tra Sở NN&PTNT phát hiện 13 loại thuốc đã hết hạn sử dụng với hàng trăm gói, nhưng vẫn được bày bán ở cửa hàng. Dù là một cửa hàng kinh doanh tại thị trấn nhỏ nhưng quy mô của đại lý Dũng Hà rất lớn, 3 kho chứa đủ các loại thuốc, từ loại đóng gói đến đóng chai, từ thuốc sinh học đến các loại thuốc cực độc. Ông Nguyễn Đức Toàn trú tại Tây Đằng cho hay: Tôi đến mua thuốc trừ bọ rầy, cũng không biết loại nào với loại nào, đều phải nhờ chủ đại lý tư vấn”. Không chỉ nông dân, mà ngay lãnh đạo Cục BVTV đơn vị trực tiếp quản lý về thuốc cũng thừa nhận, các công ty, tập đoàn sản xuất thuốc BVTV hiện quá nhiều, vì vậy, lực lượng chức năng khó lòng quản lý hết được, nên rất bị động trong xử lý. Trong tháng Thuoc bao ve thuc vat 9-2013, Cục BVTV đã thành lập 6 đoàn thanh tra, kiểm tra việc chấp hành các quy định của pháp luật trong sản xuất và kinh doanh thuốc BVTV tại 6 công ty sản xuất, gia công, sang chai, đóng gói, tuy nhiên, chỉ phát hiện 6/68 trường hợp vi phạm. Phát hiện cả bao tải thuốc thúc quả chín Đặc biệt, tại kho hàng phía sau của cửa hàng Dũng Hà, lực lượng thanh tra đã phát hiện một bao tải đựng thuốc thúc chín hoa quả xuất xứ từ Trung Quốc. Một cán bộ trong Đoàn kiểm tra cho hay: Đây là thuốc ngoài luồng, vì Cục BVTV chưa cấp phép cho bất kỳ loại thuốc bảo quản hoa quả nào được sử dụng ở Việt Nam”. Kiểm đếm số thuốc trên lên tới 1.500 ống. Bà Lê Thị Thu Hà, chủ đại lý, khi được hỏi về nguồn gốc số thuốc trên đã cho biết chỉ mua hộ cho một khách hàng và mua của người đi đường. Song, khi được hỏi người khách đặt mua lượng lớn số thuốc thúc chín hoa quả này là ai, bà Hà cũng lắc đầu, nói không biết! Đáng nói, vào tháng 7-2013, một số phương tiện thông tin đại chúng trong đó có Báo An ninh Thủ đô đã phản ánh về tình trạng nông dân một số huyện ngoại thành sử dụng loại thuốc ngoài luồng để ép” chín hoa quả, nhưng, Chi cục Quản lý chất lượng nông lâm sản Hà Nội đã báo cáo Bộ NN&PTNT, rằng qua kiểm tra, không phát hiện tình trạng trên!? Ông Phùng Hữu Hào, Phó cục trưởng Cục Quản lý chất lượng nông lâm và thủy sản cho rằng, thuốc thúc chín tố hiện nay chủ yếu là Ethephon, không độc, không gây ung thư, về bản chất gây nguy hại với sức khỏe con người không cao. Song, ông Phùng Hữu Hào cũng thừa nhận, loại thuốc này vẫn chưa được đăng ký, chưa được phép sử dụng ở Việt Nam. Trên bao bì của loại thuốc thúc chín tố vừa được Thanh tra Sở NN&PTNT tại Ba Vì có in nhãn mác phụ bằng tiếng Việt ghi rõ: Loại thuốc này có khả năng ăn mòn kim loại, có chất kích thích đối với mắt và da”. Ngoài ra, hướng dẫn sử dụng nêu rõ, pha một ống thuốc với 4-5 lít nước rồi phun hoặc nhúng trái cây vào, trái cây sẽ chín đều, đẹp. Thuốc được dùng với nhiều loại trái cây như mít, hồng, chuối, đu đủ, lê, cam, cà chua… Như vậy, với tính năng ăn mòn kim loại thì liệu sẽ không gây độc cho người tiêu dùng như lãnh đạo Cục Quản lý chất lượng nông lâm và thủy sản nói. Tuyết Nhung. googletag.cmd.pushfunction googletag.displaydiv-gpt-ad-1378545218462-1; ; .. Kho chứa hóa chất BVTV của Chi cục BVTV tỉnh Lạng Sơn. Ảnh: Song Toàn. Xây thư viện để làm gì?. Tình trạng người dân sử dụng thuốc không đúng nồng độ, không đảm bảo thời gian từ lúc phun đến khi thu hoạch như quy định đang khiến cho dư lượng các loại thuốc BVTV trên nông sản vẫn còn, đặc biệt là trên rau, ảnh hưởng đến sức khỏe người tiêu dùng. Để kiểm soát chặt chẽ việc sử dụng thuốc, dự thảo thông tư nêu trên quy định, người sử dụng thuốc BVTV phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về những hành vi: sử dụng thuốc tùy tiện, không đúng kỹ thuật được khuyến cáo, không đảm bảo thời gian cách ly; sử dụng thuốc cấm, ngoài danh mục, không rõ nguồn gốc; vứt bỏ bao gói đã đựng thuốc, đổ thuốc không đúng quy định gây ảnh hưởng xấu đến sức khỏe của con người, vật nuôi và môi trường. Người sử dụng thuốc BVTV gây thiệt hại về vật chất cho người khác sẽ phải bồi thường. Quang Duẩn. Theo Bộ NN&PTNT, tháng 9-2013, tỉnh Lạng Sơn đã tiêu hủy hơn 9,5 tấn thuốc và hơn 2 tấn bao bì thuốc BVTV bị thu giữ và thuốc ngoài danh mục. Tỉnh Lào Cai đang thu giữ hơn 4,2 tấn thuốc BVTV nhập lậu, thuốc ngoài danh mục và 130 kg bao bì. Tỉnh đang Thuốc bảo vệ thực vật xin kinh phí tiêu hủy trong năm 2014.

.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét